19-SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH : THỰC HIỆN SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH
Kinh A-Hàm dạy: “Bệnh
sắc dục dùng bất tịnh trị”. Thực vậy, đứng trước sắc đẹp phụ nữ, khi
tâm tham dục khởi, chúng ta phải dùng quán thân bất tịnh để đối trị. Nghĩa là
phải suy tư quán xét cho thấu đáo tất cả vạn hữu đều có sắc tướng bất tịnh, dễ
ô nhiễm, sinh ra mùi hôi thúi ghê tởm, dù cho chúng có những sắc tướng khêu gợi
khiến cho tâm tham sắc dục dễ nổi lên cũng đều là bất tịnh.
Muốn làm chủ được tâm
tham sắc dục không có pháp môn nào để chế ngự hơn là kinh nghiệm bản thân. Phải
trực tiếp mắt thấy tai nghe mũi ngửi mùi, tay sờ mó vào sắc tướng của đối tượng
đang phơi bầy trước mắt ta những hình ảnh ghê tởm uế trược, hôi thúi và còn nhiều
sự bất tịnh khác nữa. Nhờ có trực tiếp như vậy, nên khi vừa thấy sắc là ta thấy
ghê tởm ngay liền.
Muốn chế ngự và hàng phục
tâm sắc dục, điều tối quan trọng là phải thông suốt:
Ở đâu có khoái lạc, ở đó
có khổ đau. Sự đau khổ nhắc cho chúng ta thức tỉnh trong sự mong cầu khoái lạc.
Xét về thân và tâm của
mình, từ xương, răng, da, tóc, đờm nhớt, máu mũ, thảy đều bất tịnh. Về phần
tinh thần, ta cũng dễ bị ô nhiễm, dính mắc các sắc tướng vạn hữu; vì thế chúng
ta càng khởi tâm tham dục lạc thì càng thọ vô lượng thứ đau khổ.
Người sống với MƯỜI
ĐIỀU LÀNH phải thể hiện đúng MƯỜI ĐIỀU LÀNH của Phật dạy và còn
phải nhìn thấu suốt thực chất sắc tướng của vạn hữu đang vây quanh chúng ta.
Người mang bệnh
sân hận nặng muốn đối trị phải dùng từ tâm. Nghĩa là chúng ta phải biết
đem lòng từ bi tha thứ và thương yêu những kẻ lầm lỗi, những người hung ác,
gian tham, tật đố, v.v..
Tại sao vậy? Vì họ là người thiếu giáo dục đạo đức, không được ánh sáng chân lý
soi chiếu vào tâm tư họ nên đời sống họ luôn luôn bám chặt vào vật chất chịu
nhiều thứ đau khổ.
Chúng ta là người sống với MƯỜI
ĐIỀU LÀNH phải thấu rõ lý nhân quả, thường dùng chánh kiến và luôn thực hiện LÒNG
THƯƠNG YÊU đối với mọi người. Nhờ vậy, lòng đau khổ, sự giận hờn mới chấm dứt.
Ý thức được sự ích kỷ,
nhỏ mọn của mình là thuốc độc giết chết tâm mình, chỉ có LÒNG YÊU
THƯƠNG mới cứu chúng ta sống an vui.
Muốn trị bệnh ngu
si mà không chịu học Phật pháp thì không làm sao có trí tuệ giải thoát, không thể làm chủ được tư tưởng của mình và thấu suốt
được vạn hữu. Vả lại người ngu si không thể nào biết áp dụng phương tiện của Đức
Phật dạy. Bởi vậy, kẻ
ngu si không đủ trí hiểu biết luôn luôn sống một đời đầy đau khổ, sân hận, lúc
nào cũng nô lệ cho vật chất.
Người sống với MƯỜI
ĐIỀU LÀNH là phải biết dùng pháp môn quán của Đức Phật đã giảng dạy suốt
con đường “A-Hàm” tức “Nhị Thừa”. Pháp môn
này dùng để đối trị tất cả tư tưởng phiền não. Khi thấu suốt con đường quán của
Nhị Thừa, chúng ta mới thấu rõ là tất cả hiện tượng vạn vật thiên nhiên trong
vũ trụ đều do duyên hợp tạo thành chớ không do một đấng vạn năng nào biến hóa
ra.
Xét cho cùng tột về cuộc
sống của chúng ta, ta mới thấy ngã không, người không và vạn hữu đều không.
Kinh A-Hàm dạy: “Này Thích Đề Hoàn Nhơn! Như vậy tất cả hiện tượng đều
quy về không: không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình
tướng, không nam nữ”.
Ở đây chúng ta nghe Đức
Phật dạy tất cả hiện tượng trong thế gian đều quy về không: không ta, không người,
không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ, thế mà mọi vật
trước mắt chúng ta sờ sờ mà bảo là không thì hóa ra lời dạy kia phi lý và mâu
thuẫn với chính nó hay sao?
Muốn rõ lý sắc không,
chúng ta phải có sự tư duy cho tường tận mới thấy vạn hữu là không. Ví dụ, muốn
dựng một cái nhà phải do nhiều thứ hợp lại như kèo, cột, vách, lá, phên, cửa,
đòn dông hợp lại tạo nên một cái nhà. Nếu lấy một cây cột mà bảo đó là cái nhà
thì không đúng.
Câu chuyện vua Malinda hỏi
Tỳ kheo Nagasena trong Kinh Malinda :
- Thưa Đại Đức!
Quý danh Ngài là gì?
- Tâu bệ hạ!
Người ta gọi tôi là Nagasena, nhưng không có thật tôi.
Nhà vua hỏi :
- Nếu không có
thật NGÃ thì ai cúng dường, ai truyền giáo, ai tham thiền, ai thực
hành giáo lý và ai tu chứng Niết Bàn? Vậy cái gì mới thực là Nagasena? Hay tóc
trên đầu là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ!
Không phải tóc là tôi.
- Lông nơi thân
là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng
không.
- Vậy thì sự cảm
xúc, sự nhận biết vui buồn là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng
không.
- Vậy thì ngũ uẩn,
tứ đại là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng
không.
- Như thế ngoài
thân còn cái gì là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng không có cái thân nào khác ngoài Nagasena.
Vua Malinda hỏi xong,
Nagasena hỏi lại:
- Tâu bệ hạ! Ngài đến đây bằng gì?
- Bạch Đại
Đức! Trẫm đến đây bằng xe.
- Vậy bệ hạ
có thể giải thích xe là gì chăng? Có phải gọng là xe chăng?
- Không phải
thế.
- Cái trục lăn
có phải là xe chăng?
- Bạch Đại Đức
không.
- Hai bánh có phải
là xe chăng?
- Cũng không.
- Vậy nhà vua
nói các thứ đó có cái gì là xe không?
- Cũng không.
Câu chuyện vua Malinda
cho chúng ta thấy rõ ràng Phật giáo chủ trương con người không có bản ngã. Sinh
mạng của con người chỉ kết hợp do tứ đại và tâm thức. Hay nói một cách khác
hơn, con người do duyên hợp bởi đời sống vật chất và tâm lý. Đời sống vật chất
gọi là sắc uẩn ; đời sống tâm lý gọi là thọ, tưởng, hành, thức uẩn, gọi
chung là Ngũ Uẩn.
Đứng về phương diện
không gian, vạn hữu trong vũ trụ vốn giả hợp; còn về phương diện thời gian thì
vạn hữu vốn sanh diệt không ngừng, cho nên thân ngũ uẩn tạm có gọi là sanh mệnh
chúng sanh, khi ngũ uẩn tan rã thì gọi là sanh mạng chúng sanh chấm dứt hay chết.
Vạn hữu mượn danh mà đặt
tên, chớ không có thực tên, cũng như cái chúng ta thấy gọi là xe thì nó đâu có
một bản thể chính yếu, ngoài các bộ phận như gọng, bánh, trục, căm, v.v.. thì
xe không thành hình được. Xe chỉ là một danh từ để chỉ sự kết hợp của các bộ phận
ấy mà thôi. Tôn giả Tu Bồ Đề còn giảng những ví dụ giải thích cho chúng ta thấy
vạn hữu do duyên hợp tạo nên, khi hết duyên thì duyên tan, nó sẽ hoại diệt. Ví
như cây cổ thụ xum xuê tàng lá, một cơn gió to cành lá phải xác xơ. Một vườn
cây đang kết hoa nẩy nụ làm quả, một trận mưa đá, tuyết rơi làm hư hoại tất cả,
đó là duyên tan. Một cơn mưa to trút xuống, các cây cành đang héo úa gặp mưa liền
đâm chồi nẩy tược, đó là duyên hợp. Khéo quán xét chúng ta đào sâu vào sự bất động
của vạn hữu, ta mới thấy rằng bệnh tật không từ đâu sanh, chẳng phải thân sanh
mà cũng chẳng phải ý sanh. Vì thế, bệnh tật không phải do thân hay do ý, mà
chính là duyên hợp tạo nên. Pháp do duyên mà có, duyên hợp là động, động thì
pháp sanh.
Pháp pháp tự diệt, nghĩa
là hết duyên thì pháp tự hoại diệt, tự trở về sự bất động của nó. Kinh A-Hàm dạy: “Này
Thích Đề Hoàn Nhơn! Pháp pháp loạn động, pháp pháp tự diệt. Ta trước kia mắc bệnh
đau đớn khổ sở, ngày nay đã trừ được, không còn bệnh khổ”. Lời
dạy của Tôn giả Tu Bồ Đề, chúng ta nhận thức như thế nào? Có phải chăng khi suy
tư quán xét liền thấu rõ cội nguồn của bệnh tật là hết bệnh chăng? Hay một
duyên cớ gì mà ông Tu Bồ Đề bảo bệnh ông đã hết?
Khi dùng pháp Quán để thấu
suốt cội nguồn của bệnh tật, để rõ được nguyên nhân này chỉ do duyên hợp nhiều
đời và cũng như ngay trong đời hiện tại đang tạo tác. Nhờ thấu rõ cội nguồn của
bệnh tật, nên tâm tư không còn lo ngại sợ sệt, thường nhìn thẳng vào bệnh tật,
lòng không chút sợ hãi lo lắng. Đủ duyên hợp lại thành bệnh tật, khổ đau, vui
buồn, thương ghét, giận hờn... Hết duyên tất cả phiền lụy đều tan hết.
Thấu suốt được lý này,
hành giả phải chấp nhận bệnh tật hoặc tai nạn, không bao giờ sợ hãi và tìm cách
trốn tránh, lúc nào cũng vui vẻ trả nghiệp và luôn luôn tạo NGHIỆP LÀNH. Do
lòng an vui chấp nhận các NGHIỆP
KHỔ mà tinh thần dũng mãnh, can đảm
chịu đựng những thử thách để rồi vượt qua, NGHIỆP KHỔ dần
dần tan biến.
Nói đến duyên hợp, duyên
tan mà không nói đến nhân quả là một điều thiếu sót quá lớn. Nhân quả là
do NGHIỆP LÀNH hay NGHIỆP ÁC mà có. Muốn đối trị
quả khổ thì phải thấu lý nhân quả, tức là biết rõ quả THIỆN ÁC đang
chủ động tác động vào đời sống con người, khiến cho con người cực khổ thất điên
bát đảo.
Vậy chúng ta phải thường
hằng sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH, phải cố gắng gieo NHÂN LÀNH.
Khi NHÂN LÀNH đầy đủ thì sự phiền não, đau khổ sẽ chấm dứt. Muốn
cứu nguy bệnh tật của thân, mưu tìm chân hạnh phúc cho gia đình thì phải sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH. Sống
với MƯỜI ĐIỀU LÀNH là chuyển từ NGHIỆP ÁC thành NGHIỆP THIỆN, chuyển
điều dữ thành điều lành, khiến cho đời sống chúng ta hoàn toàn được thuận
duyên. Nhờ đó mà cuộc hành trình về XỨ PHẬT không còn trở ngại
nữa.
Muốn sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH mà
thiếu trí tuệ thì không bao giờ thực hiện được việc này. Muốn có trí tuệ chúng
ta phải học Phật pháp, nhờ học Phật pháp trí tuệ mới sáng suốt, mới chánh kiến
giải thoát, nhờ đó mà PHẬT
PHÁP mới thấm nhuần. Nhờ đó, tâm
chúng ta xuất hiện LÒNG
YÊU THƯƠNG, nhờ LÒNG YÊU THƯƠNG mới dễ thực hiện đức nhẫn nhục, nhờ có đức nhẫn nhục chúng ta mới thể
hiện sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH dễ dàng. Chỉ có sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH thì
quả ác mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui, hạnh phúc.
Tóm lại, con người muốn
thoát khỏi bệnh tật khổ đau, tai nạn hiểm nghèo thì không có phương tiện nào
hay pháp môn nào mau chóng bằng pháp môn sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH. Dù
thuốc hay thầy giỏi cũng không tránh khỏi thân bệnh, dù các bậc vua chúa hay
các y sư giỏi nhất thế gian cũng không thoát khỏi bệnh tật và cũng phải chịu
chung luật sanh tử.
Thế nên, học PHẬT PHÁP mà
biết khôn khéo áp dụng vào đời sống hằng ngày thì thân bệnh sẽ không còn nữa và
tâm thường được an vui.
Chúng ta hãy nghe bài kệ
của Tôn giả Tu Bồ Đề để gắng công tu tập sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH:
“Hãy nói như lời
này
Căn bản thấy đầy đủ
Người trí được an ổn
Nghe Pháp dứt các bệnh”
(Kinh Tăng Nhất A-Hàm)
Chúc quý vị tu tập thành
công để luôn luôn sống được an vui, hạnh phúc.
Sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH được
viết ra thành sách là nhờ giúp cho con gái của bà Lâm Chưởng để thoát khỏi bệnh
hiểm nghèo.
Tu viện Chơn Như, ngày 1
tháng Giêng, năm Bính Dần, 1986.
Tỳ kheo Thích Thông Lạc
Kính ghi
HẾT
[1] Sáu nghề không nên làm là: không săn bắn; không
hành nghề chài lưới; không
buôn bán thịt sống; không
buôn bán thịt chín; không
làm nghề buôn bán rượu, các chất say; và không làm nghề buôn bán người (làm nô lệ, hoặc
hành nghề mãi dâm).
[2] Ban Hộ Niệm do Đại Thừa tổ chức đi tụng niệm ma
chay.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét