30-TỨ VÔ LƯỢNG TÂM: CÁCH ĐỐI TRỊ HÔN TRẦM
THÀNH PHẦN VÀ HÀNH TƯỚNG CỦA TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Thành phần của
Tứ Vô Lượng Tâm là: từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, và xả vô lượng.
CÁCH ĐỐI TRỊ
HÔN TRẦM
Muốn phá hôn
trầm, tùy theo mỗi thứ mà phá:
1. Lao động
chân tay nhiều sanh ra hôn trầm. Người tu tập không nên lao động nhiều và lao động
quá sức. Nên nhớ là lao động để mà tu chứ không phải lao động để hết công việc.
Tu tập là sự lao động rất lớn về trí, nếu lao động cơ thể quá nhiều, không thể
nào tránh khỏi hôn trầm. Người cư sĩ phải biết giữ gìn sức khoẻ, không nên phí
phạm sức khoẻ trong các cuộc vui chơi trác táng, thức khuya, trà, rượu, thuốc
hút, v.v...
2. Tu tập là
một sự lao động về tinh thần. Nếu tu tập nhiều, tinh thần mỏi mệt dễ đưa đến hôn
trầm. Nếu hôn trầm do sự tu tập thì nên dựng lại thời khoá tu tập cho hợp với sức
của mình thì sẽ hết hôn trầm, và càng tu càng thấy thích thú hơn.
3. Tu ít (có
quá nhiều thì giờ nhàn rỗi) sinh ra lười biếng, dễ bị hôn trầm tấn công: nên tu
dúng theo thời khoá thì hết hôn trầm.
4. Người mới
sống độc cư, cô đơn, không nên ngồi thiền nhiều. Đừng nên ở không, phải lao động
vừa sức, nhẹ nhàng, thì hết hôn trầm.
5. Uống thuốc
chỉ thống sanh ra buồn ngủ: nên đi ngủ, khi thuốc tan hết thì hết buồn ngủ.
6. Thân bệnh
sanh ra hôn trầm: nên tịnh dưỡng trị bệnh. Tu ít lại, xả nghỉ, thì hôn trầm sẽ
hết.
7. Bị ma chướng
hôn trầm thì đi kinh hành, dùng pháp hướng và đem hết nghị lực chiến đấu bằng
cách liên tục động thân. Hoặc rửa mặt, đi tắm, hoặc làm tất cả những hành động
khác, mục đích là giữ đúng giờ, không đi ngủ trước.
8. Còn một
cách nữa là trèo lên bồ đoàn, ngồi kiết già, lưng thẳng, mắt nhìn xuống chóp
mũi, tập trung tâm tại nhân trung, biết hơi thở ra vô tại đó, đồng thời hít vô
chậm chậm cho hết sức. Hít vô xong rồi, thì cũng chậm chậm thở ra cho hết. Tiếp
tục thở như vậy cho đúng 10 hơi thở thì sẽ hết hôn trầm.
9. Nếu không hết thì còn có một phương cách cuối cùng là làm cho hơi thở phát ra tiếng kêu; nghĩa là thở mạnh có âm thanh, thở đến khi nào không còn bị hôn trầm mới thôi.
Tóm lại, người
tu sĩ Đạo Phật, bằng mọi cách, phải xa lià năm thứ dục lạc kể trên để chấm dứt
sanh tử, luân hồi. Mục đích tu hành theo đạo Phật là làm chủ năm thứ dục lạc,
là xả ngũ dục lạc (tài, sắc, danh, thực, thuỳ). Nếu quý vị không xả được năm thứ
ngũ dục lạc ấy, thì dù cho tu thiền một ngàn năm cũng là ma thiền, tà thiền. Có
nhiều đạo sĩ tu khổ hạnh nhiều năm trên núi, ăn toàn lá cây rừng mà sống được,
người ta đem chôn xuống đất mà không chết, dìm xuống nước, đi trên lửa, hoặc áo
mỏng đi ngoài trời rét dưới –37 độ C vẫn không hề gì. Vậy mà đem thi triển, biểu
diễn từ nước này sang nước khác cho mọi người và báo chí xem (còn háo danh!).
Người tu chân chính có ai làm như vậy bao giờ? Đức Phật dạy ta tháo gỡ những
khó khăn của kiếp sống để được an vui, giải thoát. Người nào tu tập tứ vô lượng
tâm mà còn vướng mắc trong ngũ dục lạc, thì dù cho người ấy có lý luận như thế
nào thiên hạ cũng biết. Dù có thần thông, bay như chim, lặn xuống nước, độn thổ,
tàng hình, có bùa chú thần linh, kêu mây, hú gió, người ta vẫn biết là ông ta
chưa chứng đạo. Đời sống của một tu sĩ mà ở chùa to, tháp lớn, ăn ngày ba bữa,
vật dụng không thiếu thứ gì là đời sống của thế gian pháp. Phàm phu tục tử bị
năm thứ dục lạc trói buộc là đời sống phi giải thoát. Tu sĩ mà sống như thế là
đời sống phi phạm hạnh, không phải là đời sống xuất thế gian của thầy tu đạo Phật.
Chỉ cần nhìn vào đời sống của tu sĩ thì ta biết ngay là Phật giáo hưng thịnh
hay không. Xã hội còn có thầy tu khất sĩ là còn hưng thịnh, nếu có nhiều chùa
to, tháp lớn là Phật giáo suy đồi. Khi người tu sĩ Phật Giáo không lấy ba thánh
pháp (Giới, Định, Tuệ) làm chỗ nương tựa vững chắc thì dễ phạm lỗi lầm, không
biết xấu hổ trước những lỗi nhỏ nhặt thì chánh pháp phải suy đồi. Khi nào còn
các thầy tu xa lià ngũ dục, sống thiểu dục, tri túc, ba y, một bát, không nhà,
không cửa, không có gia đình, tài sản nhỏ, tài sản lớn là còn những bậc chân
tu, giới đức, thiền đức, thật sự giải thoát khỏi những dục lạc thế gian là điềm
lành cho Phật giáo. Còn đi biểu diễn những trò kỳ đặc chỉ là hình thức mua
danh, bán lợi mà thôi. Để kết thúc bài Tứ Vô Lượng Tâm này chúng tôi xin nhắc lại
các điểm sau đây để quý vị lưu ý và tu tập đúng cách để đạt kết quả:
1/. Nếu pháp
hướng là ý thức thì phải có đối tượng (nghĩa là cụ thể) mới có kết quả; nếu
pháp hướng mà trừu tượng thì tu tập nhiều năm cũng không có kết quả. Thí dụ như
ta ngồi quán thây ma, bộ xương trắng, thì thực tế không có thây ma và bộ xương
trắng trứơc mặt, chỉ do tâm ta tưởng ra. Vậy đề mục đó là trừu tượng, nhưng ta
dùng pháp hướng để nhắc tâm là ta áp dụng pháp tưởng đúng cách. Còn tưởng trước
mặt có hơi thở ra vô là ý thức chứ không phải là tưởng thức. Quý vị hãy cẩn thận
khi áp dụng trong trường hợp này, kẻo dùng tưởng mà cứ cho là ý thức. Dùng lẫn
lộn ý thức và trừu tượng thì không có kết quả và đưa đến thiền sai.
2/. Khi tu tập
thì nội tâm phải an trú trong chánh niệm (giữ tâm mình trong chánh niệm). Thí dụ
khi trau dồi tâm từ thì luôn luôn phải ở trong lòng thương yêu (trong Tứ Vô Lượng
Tâm) mà đặt chánh niệm, không phải trong cái tâm dao động, nhớ cái này, nghĩ
cái kia. Đặt niệm chân chánh ở ngay trong sự trau dồi. Nếu dùng chánh niệm quán
thân bất tịnh mà tu tâm từ là tu sai.
Nên nhớ phải
thường xuyên như lý tác ý, không được xao lãng. Phải tỉnh thức cao độ, không để
cho thất niệm. Phật dạy: “Bị thất niệm là bị ma dẫn. Dù có chánh niệm
mà không đúng đối tượng ta đang trau dồi thì vẫn không có kết quả, vẫn bị ma dẫn.” Nếu
sức tỉnh thức chưa cao độ thì phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
3/. Khéo léo
giữ tâm vững trú trong thiện pháp, luôn luôn lúc nào cũng thực hiện pháp Phật,
vững trú trong thiện pháp, không cho ác pháp chiếm tâm hay đặt chân vào tâm,
luôn luôn đề cao cảnh giác...
4/. Pháp từ
vô lượng phải được trau dồi thường xuyên cho được sung mãn, làm cho thành cỗ xe
(để rải đi tất cả), làm thành cứ điểm (vững chắc), làm cho được kiên trì (vững
bền, không thay đổi), tích luỹ (càng nhiều càng tốt). Phải khéo tinh cần, siêng
năng thực hành theo lời chỉ dạy, phương pháp hành trì của Thầy, của Phật thì
pháp an lạc sẽ đến với quý vị thật rõ ràng (có kết quả giải thoát). Phải tu tập
rất nhiều, và nhiều cái khác nữa chứ không phải chỉ có bấy nhiêu đó mà đủ sức tỉnh
thức, đủ an lạc, giải thoát và thành tựu được tâm vô lượng này.
5/. Bi vô lượng
giải thoát cũng tu tập như vậy, làm cho thành cỗ xe, làm cho kiên trì, tích luỹ.
Hỷ tâm vô lượng giải thoát cũng tu tập như vậy, và xả tâm vô lượng giải thoát
cũng tu tập như vậy. Nhờ đó mà thành tựu được các pháp trên thế gian này.
Cứ y chỉ
theo lời dạy của Thầy, đặt trọn vẹn niềm tin ở Giới, Định, Tuệ. Tất cả các pháp
môn của Đức Phật mà hôm nay Thầy đã triển khai là con đường có lý pháp và hành
pháp rõ ràng, cụ thể. Thầy đã vén sạch màn mây của kiến thức, tưởng giải cổ
nhân đang phủ trùm trên ba Thánh pháp của Phật (Giới, Định, tuệ). Ngày nay pháp
này không còn ai thực hiện được, chỉ là danh từ suông. Hầu như toàn bộ tu sĩ Phật
Giáo sống ngược lại và không thực hành đúng pháp này.
6/. Nếu quý
vị sống đúng và hành đúng theo lời dạy của Thầy, thì lòng thương yêu rộng lớn của
quý vị phủ trùm cả không gian và thời gian. Chừng đó thế gian này là Thiên Đàng
và quý thầy sẽ là du tăng, khất sĩ, rày đây, mai đó, không có chùa to, tháp lớn.
Quý thầy đã phủi sạch sợi dây triền phược, vật chất thế gian, đời sống của quý
Thầy rộng bước thênh thang, tâm hồn của quý Thầy thương yêu chúng sanh như
không gian, phủ trùm vạn hữu. Bấy giờ, quý Thầy không phải là Phật, Tổ, A La
Hán hay Bồ Tát mà là một con người như bao nhiêu người khác. Tâm hồn của quý Thầy
đã hoà cùng với cuộc sống của nhân thế, và mãi mãi bên nhau, không xa lìa. Quý
Thầy là con người giải thoát với lòng thương yêu vô tận.
Để sách tấn
quý vị trên đường tu, chúng tôi xin kể lại cho quý vị nghe mẩu chuyện của một vị
Thánh Tăng thời Đức Phật, người đã từng tu tập thiền quán, trau dồi Tứ Vô Lượng
Tâm thật tinh chuyên và trở thành vị đệ tử đệ nhất về hạnh từ, bi, hỷ, xả vô lượng.
Đó là Ngài Tu Bồ Đề (Sibhuti) là em trai của ngài Cấp Cô Độc. Trong ngày Ông Cấp
Cô Độc cúng dường Kỳ Viên Tịnh Xá, thì người em đã chứng kiến và nghe Phật thuyết
pháp. Sau đó ông xin Phật xuất gia và thọ đại giới. Ngài thâm hiểu hai loại giới
luật, được Đức Phật cho một đề tài Thiền quán, hướng tâm tu tập, trau dồi thân
tâm bằng pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm. Từ đó ngài trở thành người đệ tử Phật có từ
tâm đệ nhất. Ta hãy nghe bài kệ của Ngài khi ngài chứng Vô Lượng Tâm:
Từ tâm ta
trau dồi
Phủ trùm khắp
muôn phương.
Bi tâm ta
trau dồi,
Thương khắp
hết quần sanh.
Hỷ tâm ta
trau dồi,
Vui hoà cùng
vạn pháp.
Xả tâm ta
trau dồi
Vạn vật đều
chung vui,
Tâm ta khéo
định tĩnh,
Tinh cần sống
giải thoát.
Chỉ cần tu
có bao nhiêu đó mà Ngài chứng được Tam Minh và giải thoát. Tâm thương chúng
sanh mạnh đến mức độ đó thì khi Ngài truyền lệnh là có kết quả ngay. Ngài thường
tập pháp hướng tâm, tức như lý tác ý, cho nên khi bảo các hành trong thân thể
ngưng, hơi thở ngưng là nó ngưng ngay, và nhập Tứ Thiền. Lúc đó nếu hướng tâm về
quá khứ thì Ngài rõ vô lượng kiếp trong quá khứ. Ngài chứng lậu tận minh, túc mạng
minh, thiên nhãn minh... nên khi tâm hướng về đâu thì nó xuất hiện ngay, không
cần phải ngồi nhiếp tâm, ức chế tâm như chúng ta dùng hơi thở. Ngài đã nghiêm
trì giới luật của Phật dạy và tu tập thiện pháp. Thiện pháp thì phải có lòng
thương yêu rộng lớn (Từ, Bi, Hỷ, Xả). Thế là nhờ áp dụng bài pháp này Ngài đã
thành tựu giải thoát và được xem là người đệ tử đệ nhất về từ bi vô lượng. Vậy
chúng ta tu tập thì phải ráng học theo gương hạnh của các Thánh Tăng thời Đức
Phật.
Ngày nay
chúng ta không có Thánh Tăng, phần đông đều phá giới, phạm giới, ăn, ngủ phi thời,
ở nơi tốt đẹp, tiện nghi. Các bậc thánh tăng ngày xưa chỉ có ba y một bát, đi
xin ăn từng ngày, sống ở trong rừng. Có nhiều vị già cả, bảy, tám mươi tuổi mà
vẫn lụm cụm đi khất thực, mệt nhọc leo trèo lên núi, xuống đồi. Chính nhờ sự khất
thực này mà các Ngài nỗ lực rèn luyện hạnh nhẫn nhục và giúp cho người cư sĩ
gieo duyên tu tập. Bấy lâu nay chúng ta không có người hướng dẫn, nên không biết
học theo gương hạnh của các bậc Thánh Tăng ngày trước. Từ nay, thỉnh thoảng
chúng tôi sẽ kể cho quý vị nghe một mẩu chuyện về cuộc đời của các vị Thánh
Tăng, để chúng ta cùng nhau sách tấn trên đường tu học.
Sau đây là
bài kệ mà chúng tôi làm để nhắc nhở chư Tăng Ni và Phật tử tu tập Tứ Vô Lượng
Tâm:
Trau dồi Từ
tâm tốt,
Lòng thương
hoà vạn hữu.
Trau dồi Bi
tâm tốt,
Vạn hữu hết
điêu linh.
Trau dồi tâm
Hỷ tốt,
Lòng vui khắp
muôn loài,
Trau dồi tâm
Xả tốt,
Vạn vật sống
an lành.
Mong rằng
các Tăng Ni và Phật tử hàng ngày cố gắng trau dồi tu tập Tứ Vô Lượng Tâm này để
sống an vui, thanh thản, và tình thương chan hòa cùng mọi loài chúng sanh.
Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Sa môn Chơn
Như
Mùa An Cư
1997
- HẾT -
[1] Bốn
giai đoạn của sự tu tập là: 1/ phải thông hiểu những gì cần thông hiểu, 2/ trau
dồi những gì cần phải trau dồi, 3/ dứt bỏ những gì cần phải dứt bỏ và 4/ tu tập
những gì cần phải tu tập.
[2]Bởi
vậy tu sĩ, đệ tử Phật thì không có làm một việc gì khác ngoài việc đi xin ăn
(khất thực)
[3] Sống
trong tu viện mà cứ chạy qua chạy lại nói chuyện với người trong cốc, gây xáo
trộn, tai hại cho mình và cho người.
[4]Tên
một hòn núi ở trên đảo ngoài khơi miền tây Nam bộ, tục gọi là Ma Thiên Lãnh.
[5]Tên một khu đất rộng lớn ở Phước Hải mà HT Chơn Như đã lập đồ án và xin phép thành lập từ năm 1990.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét