27-TỨ VÔ LƯỢNG TÂM: CÁCH THỨC TU TẬP XẢ TÂM
THÀNH PHẦN VÀ HÀNH TƯỚNG CỦA TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Thành phần của
Tứ Vô Lượng Tâm là: từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, và xả vô lượng.
CÁCH THỨC TU
TẬP XẢ TÂM
Muốn trau dồi
tâm xả các pháp thì ta phải làm sao? Hãy tìm một nơi thanh vắng, tịch mịch như
trong rừng, gốc cây, hang đá, khe núi, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, bóng
mát, trong chòi lá để tập xả các pháp. Ở ngay trung tâm thành phố thì làm sao xả
được? Sau khi ăn cơm độ hai tiếng đồng hồ, khi thức ăn đã tiêu hóa, lúc không
thấy no, ta mới bắt đầu tu tập: ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, an
trú, đặt niệm trước mặt, quán sát:
(1) Sắc
dục: Con người ta sinh ra từ sắc dục. Nó là con đường sanh tử, luân hồi,
cho nên ta phải lấy nó làm đối tượng quán chiếu. Nó là con đường đưa đến đau khổ
cho ta và cho người. Thương yêu, cưới nhau, rồi sinh con đẻ cái, lo nuôi nấng
cho con lớn khôn, rồi dựng vợ, gả chồng cho nó. Cả một đời đau khổ! Vậy mà người
ta cứ chạy theo sắc dục. Quả là vô minh! Quả là ngu si! Ta phải như lý tác ý:
“Sắc dục
là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đau khổ từ kiếp này sang kiếp
khác. Ta phải xả bỏ, từ khước, thoát ly, ra khỏi, từ giã, không nên để tâm vướng
mắc nó nữa”.
Ngồi yên lặng
một lúc thì ta lại tác ý xả nữa, xả hoài cho đến khi nào ta thấy tâm ta hoàn
toàn sạch hết thì sự tu tập mới viên mãn. Đức Phật dạy như thế mà thôi. Riêng
Thầy, rút ra từ kinh nghiệm bản thân, Thầy dạy cho các con để tu tập rốt ráo, để
thấy con đường giác ngộ thênh thang. Nếu không đặt niệm trước mặt, không dùng
pháp hướng, như lý tác ý thì khó mà xả được tâm này. Nó chờ cơ hội để bùng lên
như lửa. Ta phải tu tập hoài để cho nó thấm nhuần tận xương tủy mới thôi. Chớ
có lầm tưởng ngồi im lặng một lúc thấy khinh an, hỷ lạc mà hài lòng. Hàng ngày
các con phải siêng năng trau dồi, tu tập câu này để đoạn tuyệt, dứt tận tâm ái
dục. Bản thân chúng ta sinh ra từ cha mẹ, mà cha mẹ ta cũng là do tâm này, cho
nên ta cũng không dễ gì mà dứt được tâm này. Nếu câu này mà chưa đạt được kết
quả (hãy còn dục) thì ta hướng tâm như lý tác ý:
“Sắc duc
là bất tịnh, là uế trược, nhớt nhao, hôi thúi, khó chịu vô cùng. Sắc dục tạo
muôn ngàn tật bệnh, tai ương, và truyền nối nhau nhân quả luân hồi từ kiếp này
sang kiếp khác, không bao giờ dứt, một người để lại muôn người khổ, nối tiếp
nhau vô cùng vô tận. Ta phải xả bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn, xem nó như rắn độc,
ung nhọt, cho nó là hiểm nguy nhất, là tai họa, là ác độc, là bệnh truyền nhiễm,
nan y, khó chữa”.
Câu sau mạnh
hơn, như truyền lệnh thì may ra ta mới có thể xa lìa. Cuộc đời tu hành là cả một
sự rèn luyện, trau dồi chứ không thể nói suông được. Nhắc xong là ta ngồi đó để
lặng tâm, giữ tâm thanh thản. Một lúc sau ta lại nhắc nữa, nhắc hoài như đập những
nhát búa để cho tâm dần dần thấm nhuần, trau dồi tâm, xả sạch sắc dục, thấy sắc
dục là ta hoảng sợ, không dám bén mảng. Nếu không thì nó sẽ ngủ ngầm, tạm thời
nằm yên, nhưng có dịp là nó sẽ xuất hiện (len lén ngắm nhìn người nữ). Tu tập
được thì thấy nó như rắn độc, là bệnh tật, là khổ đau, không còn cảm giác thích
thú nữa.
Trong kinh Tứ
Niệm Xứ có dạy trên thân quán thân, nhưng đây là dạy chung chung, người tu tập
chưa nắm vững. Thí dụ Phật dạy trên thân quán thân để khắc phục tham ưu của
mình mà mình không biết lúc nào khắc phục tham ưu, lúc nào khắc phục bất tịnh. Ở
đây ta xả cái tâm sắc dục, tâm ái bằng cách đặt niệm trước mặt, tức là trên
thân của ta quán thân, quán thân mình và quán các pháp bất tịnh. Sau này có dịp
Thầy sẽ giảng rõ hơn, dùng câu pháp hướng nào để phá vỡ cái nào mà ta đang bị
vướng mắc. Người đọc kinh sách Phật, không hiểu mà tu tập, nay pháp này, mai
pháp khác, không có kết quả cụ thể, càng tu càng chán nản, lầm đường, lạc vào
pháp tu của ngoại đạo mà cứ tưởng là pháp Phật. Tóm lại, muốn xả tâm vô lượng
ly sắc dục thế gian, thì ta phải siêng năng trau dồi tâm xả của ta. Hàng ngày
không được biếng trễ thì mới xả ly được. Hãy tinh tấn, chớ có phóng dật theo
nó, nghĩa là luôn luôn tinh tấn, ngăn chặn, nhất là đối với nữ sắc. Đó là điều
tiên quyết quan trọng. Đừng có nhìn gương mặt người nữ, đừng có nhìn hình dung,
làn da người nữ, mắt, môi của người nữ. Phật dạy: “Ta không thấy có một
pháp nào lôi cuốn người nam bằng nụ cười, ánh mắt, làn da, hương thơm của người
nữ”. Vậy muốn tập xả tâm này thì ta không được phóng tâm theo nó, đừng
chạy theo nó. Ráng tập luyện xa lìa, xả bỏ nó độ ba tháng sau quý vị sẽ thấy kết
quả rất tuyệt diệu. Nếu hôm nay quý Thầy tu tập tinh chuyên mà hôm sau gặp các
bà, các cô lại nói chuyện huyên thuyên thì thà rằng trở về nhà cưới vợ cho
xong, ngồi tu cho có hình thức làm gì, vô ích.
(2) Xả
tâm vô lượng của báu, vàng bạc của cải thế gian: Xả tâm vô lượng là xả tất
cả (vô lượng) các pháp, mà tiền bạc châu báu là thứ khó xả nhất. Bởi vậy phải
tu tập, nhắc đi, nhắc lại nhiều lần. Ta nghe chuyện ông Bàng Long Uẩn đem hết của
cải, vàng bạc đổ hết xuống sông, nhưng có mấy ai làm được? Có người cho rằng
ông ta ngu quá, tại sao không cho người khác? Đó là suy nghĩ không đúng. Ta đã
biết nó là tai họa, ta cố chừa bỏ mà ta lại mang cái khổ, cái họa cho người
khác hay sao? Ông Bàng Long Uẩn thấu rõ điều ấy nên ông vứt bỏ, không nuối tiếc.
Ta phải ngồi
kiết già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, dùng pháp như lý tác ý câu này: “Tiền
bạc, của cải, châu báu là những thứ vật chất lôi cuốn ta rất mạnh, làm cho tâm
ta ưa thích, say mê mà chạy theo, tạo ra biết bao điều tội ác. Người nông dân
khó nhọc mới có hạt gạo cho ta ăn, lưỡi cày đã cắt đứt biết bao nhiêu côn
trùng, rồi thuốc trừ sâu, diệt cỏ ... Đó là cái nghề lương thiện mà còn mang
nghiệp sát, huống hồ là những nghề không lương thiện. Người ta lường gạt, xâu
xé, hãm hại nhau vì từng đồng xu, cắc bạc... ”. Nên lấy câu trạch pháp
này mà trau dồi nhiều lần để tâm ta thấm nhuần. “Tiền bạc của cải, châu
báu thế gian là tên chủ độc tài, sai bảo ta làm bất cứ cái gì mờ ám ta cũng
vâng theo, tạo ra rất nhiều tội lỗi. Vậy ta phải từ giã, xa lìa, ông chủ này để
thoát kiếp nô lệ”. Chính nó bắt ta hút thuốc, uống rượu, cờ bạc, tạo
nhiều điều tội lỗi...
Những kẻ xa lìa tiền bạc, của cải, danh lợi mới là bậc chân tu. Khi họ cất chùa to là họ bị đồng tiền sai sử. Ta phải ghi nhớ điều này: người tu sĩ không nô lệ cho ông chủ tiền bạc. Nếu các tu sĩ mà còn cất giữ tiền bạc, tiếp nhận của cải vật chất thế gian càng nhiều thì càng ăn ngủ không yên (sợ vua tịch thu, chính phủ nghi ngờ, kẻ gian vào, trộm cướp hãm hại) mạng sống như chỉ mành treo chuông. Vì vậy ta phải xa lìa, dứt bỏ chúng. Phải ghi nhớ mãi câu pháp hướng, như lý tác ý để ta vĩnh viễn xa lìa vật chất chế gian, trau dồi tâm xả vô lượng. Đó là xa lìa của cải, tài sản lớn. Người tu thì không ham tài sản, của cải lớn, nhưng có người lại kẹt vào tài sản, của cải nhỏ như cái y, cái bát, cố cất giữ cho riêng mình. Tùy theo đặc tướng của mỗi người mà lựa chọn một trong hai pháp hướng kể trên. Hoặc có thể dùng câu pháp hướng sau đây: “Tài sản, của cải, vật chất chế gian là rắn độc, ung nhọt, truyền nhiễm. Có ngày ta sẽ bị rắn độc cắn, hoặc bị bệnh truyền nhiễm. Ta hãy xa lánh nó như bị bệnh cùi; đừng cất giữ, đừng tích trữ”.
Tóm lại, cần
trau dồi, tu tập tâm này cho đến khi thấm nhuần mới mong viễn ly được tâm đắm
nhiễm tiền bạc, châu báu thế gian.
(3). Xả
vô lượng tâm danh: Danh là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tán thán, tốt đẹp, chứng
ngộ, chứng đạo, được trao truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp
bằng nọ, Đại Đức, Sư Bà, Sư Trưởng, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Giám Đốc, Phó Giám
Đốc, Viện Trưởng, Phó Viện Trưởng, Viện Chủ, Pháp Chủ, thiền đức, cao tăng, giới
đức, thánh hiền, thần, thánh, tiên, Phật. Ai mà không muốn làm trụ trì? Ai mà
không mong làm Pháp Chủ, Viện Trưởng? Khi được danh thì người ta thích thú, nên
bị thu hút chạy theo danh. Có người quá cuồng loạn, rồi thất vọng, tự tử. Có
người công danh không thành, tình yêu bị phụ rẫy nên vào chùa đi tu. Có kẻ mơ
được cái danh nhỏ như làm thầy thông, thầy ký, thầy giáo, cô giáo (còn hơn là
làm đầy tớ bị người ta xem thường). Có người làm phó đội trưởng mơ làm lên đội
trưởng; khi làm đại tá thì mặt cứ ngẩng lên trời, ngênh ngang chẳng coi ai ra
gì. Thật ra những người có quyền có chức cũng là con người như ta. Họ cũng có
niềm vui, nỗi buồn, bệnh hoạn, khổ sở như bao nhiêu người khác. Vậy thì tại sao
lại phải khúm núm trước kẻ quyền uy? Việc gì mà ta phải sợ hãi? Có người đi làm
từ thiện, kêu gọi người ta đóng góp, rồi cầm tờ giấy khen để khoe thiên hạ là
mình đã cúng chùa bao nhiêu tiền, giúp cho bao nhiêu viện mồ côi, đã bao nhiêu
lần tạc tượng, đúc chuông, v.v... Nhưng thử hỏi tâm họ có thật từ thiện không?
Hay là mở miệng ra thì mắng chửi người như tát nước? Vậy thì ta thương người ở
chỗ nào? Chạm tự ái họ là họ muốn giết ta. Có người thì đến đâu cũng có tiền hô
hậu ủng, có năm, mười chiếc xe chạy theo hộ tống,...
Tóm lại,
danh là thứ dục nuôi lớn bản ngã con người. Bản ngã lớn lên theo cái danh vọng,
địa vị của người ta. Hôm qua còn làm đầy tớ, ngày nay làm quan thì cái mặt cứ
vênh váo. Như người đánh xe ngựa cho Thừa Tướng Yến Anh, anh ta cứ tưởng mình
là Thừa Tướng, nên đi đâu cũng quát tháo, đánh đuổi người ta. May mà anh có bà
vợ biết điều, đã sửa đổi tâm tánh anh. Bởi vậy ta phải thường xuyên như lý tác
ý. Tâm con người ai mà không háo danh. Phải đánh cho nó gục xuống, đừng bao giờ
để cho nó có cơ hội vùng lên. Đến phần thực hành, chúng ta cần phải lưu ý, tâm
chuyên nhất cảnh. Ta phải chọn một nơi thanh vắng, như bãi tha ma, sơn lâm, đống
rơm, chòi lá, gò mả, đồng trống, gốc cây, gộp đá... Sau khi ăn cơm xong, nghỉ
ngơi độ hai giờ, ta ngồi thẳng lưng, như lý tác ý. Thí dụ:
- “Danh
là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn, khiến tâm ta thường đau khổ, hay
tranh cãi, lý luận, phiền não. Ta hãy xả ly, từ bỏ, chỉ biết có tu hành thanh tịnh
tâm để ra khỏi sanh tử, luân hồi mà thôi”.
- “Danh
là tên giặc hão huyền không có thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh
xấu, hiu hiu, tự đắc, tự cao, tự đại, cống cao, ngã mạn. Ta hãy xem như không
có thật. Ta chỉ là một con người như bao nhiêu người khác, một con người rất tầm
thường mà thôi”.
- “Danh
là một thứ dục lạc, vô hình, thu hút, cám dỗ ta rất mạnh, khiến cho ta thêm ngả
mạn, cống cao, do đó sanh ra ngũ triền cái (tham, sân, si, mạn, nghi). Danh khiến
cho ta triền miên đau khổ, vậy ta phải cương quyết từ bỏ, viễn ly, xa lánh cái
danh.”
- “Danh
là một dục lạc có một ma lực vô hình, cám dỗ,15 lôi cuốn con người vào trong
sanh tử luân hồi. Vậy ta phải từ bỏ, viễn ly, xa lánh cái danh dù bất cứ trường
hợp nào.
- “Người
tu sĩ lãnh đạo tăng đoàn mà lãnh cái danh vào chùa là lãnh rắn độc, rắn sẽ cắn
chết chúng tăng. Vậy người tu sĩ phải xa lánh cái danh, cái lợi để cứu lấy
chúng tăng, và cứu lấy Phật Giáo.”
Hàng ngày ta
phải đặt niệm trước mặt, hướng tâm như thế, không khéo thì bản ngã ta nó đồ sộ
thêm lên theo cái danh ấy. Người tu sĩ phải ghi nhớ là trong năm pháp dục lạc
thì danh là hơn cả, khó trị vô cùng. Phải đập xẹp nó, trừ khử nó. Đừng để cho
nó vùng lên, và điều khiển ta.
(4). Xả
vô lượng tâm ăn: Làm người ai mà không thích ăn ngon. Xả cái ăn không có
nghiã là ta ăn muối, mà chính là xả cái tâm tham ăn. Nó là một dục lạc lớn
trong đời ta. Nên nhớ “Ăn để mà sống, chứ không phải sống để mà ăn”. Hãy quán
cái ăn như uống thuốc, như trị bệnh ghẻ lở. Ăn mà thấy ớn, thấy ngán, là bị dục
lạc cám dỗ. Ăn mà thấy ưa thích cũng bị dục lạc cám dỗ. Chừng nào không ưa
thích ăn ngon, không chê thức ăn dở, không ngán, không ớn là không bị dục lạc
ăn cám dỗ.
Tóm lại, ăn
là thứ dục lạc ghê gớm (do thức ăn tiếp xúc với vị giác) tạo nên sự ưa thích,
cám dỗ khó cưỡng lại. Phàm phu không học thánh pháp và tuỳ pháp nên thường bị
ngã gục trong mặt trận cám dỗ ăn uống này. Chỉ có bậc tu hành, giữ đúng giới hạnh
mới thoát ra được. Thí dụ lâu ngày không ăn đường thèm quá, thấy ai mời một ly
sữa là phóng tới lấy ngay. Thèm chua, nghe người ta tả trái me chua cũng đủ chảy
nước miếng, huống hồ là nghe người ta ăn, nhai tóp tép. Muốn không thèm ăn thì
phải thường xuyên như lý tác ý để thực tập cho thành tựu. Bị cám dỗ bởi cái kẹo,
ly nước chanh, hay một viên vitamin C, hoặc viên thuốc có dạng kẹo (kẹo ho) còn
mang tội ăn phi thời, huống hồ là ăn các thức ăn khác. Người tu hành phải diệt
trừ cái tâm tham ăn, làm chủ cái ăn, không ăn phi thời. Tu thiền mà ăn một ngày
ba bữa thì chừng nào mới làm chủ được sống chết? Người nào còn chạy theo dục lạc
ăn, ăn phi thời là phi phạm hạnh, là ngạ quỉ, quỉ sa tăng. Phần đông các tu sĩ
ngày nay, từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc đều bị quỉ dục lạc ăn cám dỗ và lôi
cuốn xuống địa ngục. Không khắc phục được ma dục ăn thì làm gì tu được chánh
thiền, đạt được chánh định? Tu sai một hào ly là cách xa đạo giải thoát một
ngàn dặm. Đi tìm đạo giải thoát mà tự trói mình trong ăn uống thì giải thoát ở
chỗ nào? Người ở thế gian bị lôi cuốn vào cái ăn đã đành, người tu sĩ không giải
thoát được cái ăn, không thấy xấu hổ sao? Như vậy thì làm sao giải thoát sinh tử
? Có người nhập thiền định không ăn uống từ bảy ngày cho đến một tháng mà không
chết (sau đó phục hồi dần cơ thể, sinh hoạt lại bình thường). Nhập thiền định một
ngày là làm chủ sống chết một ngày, nhập được một tháng là làm chủ sống chết được
một tháng.
Người tu làm
chủ sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, sầu khổ là chỗ nào? Đó là chỗ lìa được ba cái
dục danh, sắc, lợi nói trên. Ở đây, lià cái ăn tức là lià sống chết. Người tu
sĩ phải từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến
thuộc lớn; từ bỏ danh lợi thế gian, quyền tước lớn, nhỏ, để sống thiểu dục, tri
túc (ba y một bát). Đó là sống như lời Phật dạy: “Sanh đã tận, phạm hạnh
đã xong…” thì mới giải thoát được sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, sầu khổ,
chấm dứt luân hồi.
(5). Xả
vô lượng tâm ngủ: ngủ là một trong năm thứ ngũ dục lạc, khiến cho ta thích
thú, ham ngủ. Ngủ là cũng là trạng thái ngu si, mê muội, bần thần, dã dượi, lười
biếng. Cho nên người lười biếng là người ham ngủ. Ăn chơi, trác táng, cờ bạc,
rượu chè, thức khuya, làm việc quá nhiều cũng sanh ra buồn ngủ. Trong việc tu tập
thiền định thì ngủ có nhiều cấp độ:
- Hôn trầm:
ngồi một lúc là gục xuống, rồi lại ngẩng lên.
- Thuỳ miên:
cúi đầu xuống, quẹo cổ qua một bên và ngủ thiếp đi.
- Hôn tịnh:
lúc mê, lúc tỉnh, mơ mơ, màng màng. Thí du: tu tập đếm hơi thở mà lúc nhớ, lúc
quên.
- Vô ký: chợt
quên. Khi quên thì tâm không còn tỉnh giác, vọng niệm liền khởi.
- Ngoan
không: vô ký kéo dài là ngoan không; còn gọi là không ngơ. (Ngoan không là
nguyên nhân phát sinh ra trí tuệ tưởng giải).
Phật dạy người
mới tu phải tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, kinh hành nhiều, (làm cho sức tỉnh giác thật
mạnh), trên thân quán thân, theo hành tướng ngoại để sức quán cho vững, và
không rơi vào hôn trầm, thùy miên, hôn tịch, vô ký. Không lo tu tập tỉnh thức
mà lo ngồi kiết già, quán hơi thở, đặt đề mục, ngồi quá lâu, cơ thể mỏi mệt,
thì hành giả sẽ thiếp dần trong trạng thái mỏi mệt, mất khả năng suy tư, làm
cho ngu si, tu hành lạc nẻo mà không hay biết. Cho nên tất cả những loại ngủ
này đều gọi chung là si thiền, si định. Người tu theo tà thiền, định tưởng thường
rơi vào năm loại ngủ này, không sao tránh khỏi

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét