22-TỨ VÔ LƯỢNG TÂM: TỪ VÔ LƯỢNG
THÀNH PHẦN
VÀ HÀNH TƯỚNG CỦA TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Thành phần của
Tứ Vô Lượng Tâm là: từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, và xả vô lượng.
TỪ VÔ LƯỢNG
Từ Vô Lượng
là lòng mến thương vô cùng vô tận của chúng ta đối với tất cả chúng sanh, từ
con người đến con vật, cây cỏ, ban rải khắp tất cả, tránh vô tình gây đau khổ
cho chúng sanh, và đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật, cái vui do chính
lòng từ mang đến, làm cho vạn vật vui mừng, cỏ cây tươi tốt, trong đó có ta. Đức
Phật khi đi còn không dẫm, đạp lên cây cỏ sợ nó héo úa[2],
thậm chí còn không bỏ thức ăn lên cỏ vì sợ thức ăn mặn làm chết cỏ, còn ta thì
cứ đạp bừa lên, nhổ tận gốc rễ… Bởi vậy chúng ta cần phải thực hiện Tứ Vô Lượng
Tâm này.
Nói về lòng
từ thì trong đời sống của chúng ta có hai cái vui:
1) Cái
vui bền bỉ chân thật. Đây là lòng từ, bi, hỷ, xả của ta ban rải khắp mọi
loài chúng sanh trong mọi hoàn cảnh, khiến cho tất cả đều được an vui.
2) Cái
vui ngắn ngủi giả tạm: Đây là cái vui còn bị phiền não chi phối vì có tham,
sân, si đòi hỏi. Cái vui này là vui theo dục lạc, được thì vui, mất thì buồn;
và dục lạc không bao giờ có thể thỏa mãn hoàn toàn được.
Phật dạy: “Kẻ
ngu si, vô minh mới chạy theo dục lạc. Nó là thứ dục lạc ảo giác, không có thật,
chỉ có người trí mới hiểu biết mà thôi”. Bởi vậy theo lộ trình mà Thầy hướng
dẫn thì Phật tử phải đi theo đúng đường để thoát khỏi phiền não tham, sân, si
và không bị dục chi phối. Nó không ồn ào sôi nổi, mà yên lặng, nhẹ nhàng. Một
bóng, một mình mà vui trong cảnh giới siêu phàm, hòa mình cùng cái vui của vũ
trụ, vạn hữu. Trong niềm vui bất tuyệt của vạn pháp, người ngoài thấy ta có vẻ
cô đơn mà thực sự không cô đơn. Ta phải so sánh để chọn lấy một nguồn vui chân
thật.
Muốn tìm được
nguồn vui chân thật thì hàng ngày quý vị phải trau dồi thân tâm của mình trong
ba hành động của nó. nghĩa là hằng ngày trau dồi ba hành động của thân bằng
pháp môn cụ thể. Trong người của ta có ba cái hành khác nhau là thân hành, khẩu
hành và ý hành. Ta phải lấy tứ vô lượng tâm dể trau dồi ba cái hành này:
a/ Thân hành
có hai: chân hành và tay hành.
b/ Khẩu hành
gồm có ăn và nói.
c/ Ý hành
có: ý thiện, ý ác và ý không thiện không ác.
1/ Trau
dồi từ tâm nơi thân hành:
A/ Chân
hành: khi đi thì ta phải theo sát hành động đi và có pháp phướng tâm
(như lý tác ý) để gợi lên lòng thương yêu của ta đối với chúng sanh. Đây không
phải là tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định mà là mượn cái hành động chân đi để thực
hiện tâm từ ở dưới bàn chân, trong mỗi bước đi của chúng ta (Mỗi người có thể,
tùy theo đặc tướng riêng của mình, soạn thêm những câu pháp hướng tương tự cho
phù hợp với mình).
- ĐI : Cần
phải phân biệt thế nào là tâm và thế nào là ý. Ý thì có ý căn (óc não), còn tâm
thì không có tâm căn. Nếu gọi tâm mà bảo là ý thì cũng như đánh trâu kéo cày vừa
la “thá”, vừa la “ví” thì con trâu biết đường đâu mà đi? Bởi vậy nên có người mới
thắc mắc mà hỏi tại sao dùng pháp hướng nhắc tâm mà nó vẫn trơ trơ không có kết
quả. Tại vì ta đặt không đúng chỗ, không đúng tên, không đúng trường hợp của nó
thì làm sao có kết quả được?
“Dưới bước
chân ta đi có rất nhiều sinh vật nhỏ bé và thảo mộc đang sống. Ta phải đi nhẹ
nhàng để tránh thương tổn, hoặc giết hại các sinh vật”.Nhờ nhắc như vậy mà tâm ta tỉnh thức
và lưu ý ở bàn chân. Đi một lúc, sợ nó quên thì ta lại nhắc nữa. Nhờ nhắc nhở
hoài nó gây cho ta tâm thương yêu, thấm thía. Nếu hàng ngày trau dồi tu tập như
thế thì lòng từ của ta huân tập thành thói quen thương xót và ban rải khắp
chúng sanh. Khi tâm từ ta ban rải thì ngọn cỏ ta cũng không nỡ đạp lên, sợ nó mềm
yếu, héo úa. Khi ta trau dồi lòng từ như vậy thì nếu người ta có chửi mắng ta
cũng không giận. Bấy lâu nay nếu ta không trau dồi thì dù có nghe, có lập lại “phải
quán từ bi để diệt tâm sân” nhưng ta không làm, hoặc làm không rốt ráo
thì khó mà thành công. Quán thì ngồi im lìm, đó là tịnh; còn ĐI là động, ta phải
trau dồi trong hành động.
Trên đây là
cách tập luyện thực tiễn của người cư sĩ. Đợi đến khi thành Bồ Tát rồi mới trau
dồi Tứ Vô Lượng Tâm là một điều sai lầm. Người cư sĩ phải học tập và trau dồi
ngay tâm từ, bi, hỷ, xả để cuộc sống an vui, xã hội tốt đẹp hơn, và đất nước
thanh bình, không có tranh chấp, chống đối nhau. Còn các tỳ kheo thì học tập để
giữ gìn giới luật và tu tập thiền định.
- ĐỨNG: khi
đứng ta cũng nhắc: “Chúng sanh chung quanh ta có rất nhiều, nếu ta đứng
trên chúng thì chúng có thể bị tổn thương, héo úa, hoặc bị đè bẹp mà chết.” Từ
nay mỗi ngày ta phải ráng thực tập ít ra vài ba lần. Có tu tập như vậy thì lòng
ta mới thấm nhuần vạn vật muôn phương.
- NẰM: Khi nằm
ta cũng nhắc như vậy. Do đó trong ngày nếu có bao nhiêu lần ta đi, đứng, nằm,
ngồi thì ta được bấy nhiêu lần trau dồi. Cũng như người thợ vót tên, mỗi ngày cứ
chăm chỉ vót mũi tên cho nhọn và đều thì cuối cùng cũng sẽ đạt như ý muốn. Thân
ta cũng phải trau dồi như vậy thì tâm ta mới được an vui.
Đây là câu
pháp hướng khi nằm: “Tất cả chúng sanh đang ở dưới lưng ta. Ta hãy xem
xét có chúng sanh ở dưới đó không rồi mới nằm.” Nhiều lúc ta quá mệt mỏi
và ta không để ý có các sinh vật ở dưới nếu ta vô tình nằm lăn qua lăn lại là
ta đã giết chết chúng sanh (kiến, nhện, dán, bò cạp, vv.. .), nó rên la đau đớn
mà ta nào có hay. Bởi vậy khi lăn qua, lăn lại ta phải nhắc tâm, lưu ý và thực
hiện cho được từ, bi, hỷ, xả. Muốn trau dồi lòng từ thì hàng ngày ta phải siêng
năng, nỗ lực tu tập thì mới có kết quả. Tâm ta dần dần sẽ thấm nhuần, rộng lớn
bao la.
- NGỒI : Khi
ngồi ta cũng nhắc như vậy: “Khi ngồi ta có thể đè bẹp chúng sanh ở phía
dưới. Vậy ta phải cẩn thận, quan sát xem có chúng sanh ở dưới đó không. Nếu
không để ý, khi ngồi lắc qua lắc lại ta có thể làm đau khổ và chết chóc chúng
sanh”. Trau dồi tứ vô lượng tâm là thể hiện tâm từ vô lượng mà còn
phòng hộ sáu căn. Người tu sĩ mà ngồi lắc lư thì mất trang nghiêm, mắt láo
liên, ngó qua, ngó lại là không đoan trang. Người tu sĩ thì không nhìn hay ngó
người khác phái mà phải nhìn xuống dưới đất, tránh gây đau khổ, chết chóc cho
chúng sanh.
Trên đây là
trau dồi hành động của thân, khi đi, đứng, nằm, ngồi, tức là ta tỉnh thức để
tránh gây đau khổ, chết chóc cho chúng sanh. Trau dồi hành động của thân khiến
ta càng ngày càng tăng thêm tình thương đối với chúng sanh để có sức tỉnh thức
lớn, và lòng thương yêu nhiều. Nhờ đó mới diệt trừ được tham, sân, si và dứt trừ
ngũ triền cái. Khi tứ vô lượng tâm ngự trị ở tâm ta thì ngũ triền cái sẽ không
còn đeo đẳng theo ta. Sự thật không phải đơn giản; mà chính ta phải ra sức tu tập
bền chí siêng năng mới thắng được.
Mình nói
mình thương chúng sanh mà thực tế là mình thương mình, chứ chưa có thương ai hết.
Xưa có câu chuyện của Hoàng Hậu Vi Đề Hy hỏi vua Bình Sa Vương (Bimbisara) rằng: “Bệ
Hạ có thương thần thiếp không?” Vua rất đỗi ngạc nhiên, đáp rằng: “Trẫm
không thương ái khanh thì còn thương ai nhất trên đời này?” Hoàng Hậu
đáp: “Hoàng Thượng nói vậy, chứ thật ra Hoàng Thượng thương Hoàng Thượng
nhất!” “Sao lạ vậy?” “Thí du: bây giờ thần thiếp yêu một ông quan nào
trong triều thì Hoàng Thượng có còn thương thần thiếp nữa không hay là bắt giam
thiếp vào trong ngục hoặc đem xử tử? Đó là Hoàng Thượng thương Hoàng Thượng chứ
đâu có thương thần thiếp!” Quả thật, nếu hay tin vợ mình lấy một người
khác, thì người chồng sẽ nổi cơn thịnh nộ ngay. Vậy thì yêu ở chỗ nào? Nếu là
yêu thật sự thì phải để cho người mình yêu được hạnh phúc chứ?
Là đệ tử Phật
khi bị một con vật cắn đau (dù là rắn, rết, hay bò cạp) ta cũng không nỡ giết hại
nó. Chính vì lòng ích kỷ nhỏ nhen đó mà xã hội mới có tranh chấp, bất an, chứ nếu
lòng thương yêu của chúng ta rộng lớn chắc chắn không có sự bất an đó.
Cho nên bài
học đầu tiên trong Phật pháp là Tứ Vô Lượng Tâm. Tại sao thế? Vì muốn con người
biết thương yêu nhau, và xây dựng một xã hội tốt đẹp, có trật tự, an ninh. Hình
thức bên ngoài thì ta thấy các quốc gia, xã hội có trật tự, mà bên trong thì
chưa có. Đời sống ngày càng khó khăn thì lòng người càng ly tán. Đức Phật dạy
ta phương pháp để trau dồi tâm từ. Khi ta đang đi thiền hành và biết dùng pháp
hướng nhắc tâm, tức là ta đang trau dồi tâm từ. Còn nếu trong bước đi mà ta thấy
trong ta có tình thương yêu rộng lớn, và luôn luôn tránh né để không dẫm đạp
lên kiến hay một bất cứ loại côn trùng nào, tức là ta viên mãn lòng từ vô lượng.
Với tâm từ như vậy thì ta không nỡ đạp lên cỏ, ngắt một ngọn lá, bẻ một cành
cây, hay hái một cành hoa. Tâm ta phủ trùm, thương yêu khắp vạn vật. Chỉ cần một
pháp này cũng đủ để giải thoát.
Khi có lòng
thương rộng lớn thì không tham, không giận, và ngã chấp cũng không còn. Thương
yêu cá nhân thì ngã mới có. Không phải chờ đến khi nhập Tứ Thiền, đắc Tam Minh
mới diệt hết lậu hoặc, chẳng phải chờ đến khi nhập Niết Bàn mà lòng ta đã là Niết
Bàn sau một năm tu tập tinh chuyên! Giờ đây chúng ta mới hiểu vì sao Phật cấm
các tỳ kheo trồng cây cối, hoa kiểng, không làm một nghề nào cả. Còn làm là còn
động đến chúng sanh, là làm cho chúng sanh đau khổ. Không phải ta ích kỷ mà vì
ta muốn thực hiện lòng yêu thương phủ trùm vạn vật. Tóm lại, hàng ngày chúng ta
phải trau dồi tâm từ trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi bằng pháp hướng
tâm.
B/ Tay
hành: Trau dồi tâm từ trong hành động tay là khi đang cầm, nắm, bắt tất cả
những vật dụng, hoặc khi mặc áo, ăn cơm, ta phải luôn luôn như lý tác ý. Thí dụ
như câu: “Tất cả những vật dụng, cơm ăn, áo mặc, thuốc thang đều do mồ
hôi, nước mắt của người. Vậy ta phải biết ơn, thương yêu họ và thương yêu mọi
người, dù người đó có hay không có cúng dường cho ta.” Thậm chí nếu có
người đánh, mắng, chửi rủa ta, ta cũng không bao giờ đánh, mắng, chửi rủa, hay
to tiếng với họ, làm cho họ khổ sở. Ta phải nói lời nhẹ nhàng cho người vui và
không buồn khổ nữa. Khi cầm, nắm, bắt, tay ta cũng phải nhẹ nhàng, từ tốn vì
trên đồ vật ấy có thể có chúng sanh, nếu ta mạnh tay là ta có thể giết chết
sinh vật ấy. Tập luyện như vậy là tập luyện tỉnh thức trong hành động để trau dồi
tâm từ, bi, hỷ, xả chứ không phải là chánh niệm tỉnh giác định.
Muốn trau dồi
tâm từ trong các hành động nơi tay thì ta phải tác ý thường xuyên để không vô ý
làm đau khổ chúng sanh. Khi tinh tấn, siêng năng tu tập tức là ta thực tập tỉnh
giác, dần dần ta mới thật sự thương yêu chúng sanh. Khi chúng sanh đang mạnh giỏi
mà ta thương yêu là ta ban lòng từ rộng lớn; còn khi chúng sanh bị nạn, đau khổ
mà ta săn sóc, giúp đỡ là ta thực tập lòng bi. Hàng ngày ta phải tránh né để
cho chúng sanh sống an vui, ca hát, là ta trau dồi lòng từ. Từ thuộc về nhân,
khi chúng sanh không bị đau khổ; Bi thuộc về quả khi chúng sanh đang bị đau khổ.
Người ta đang sợ hãi mà ta đến trấn an là bi. Nhường chỗ ngồi cho một bà già
đang đi trên xe đò là bi.
Lòng từ biến
mãn khắp mười phương, khiến cho cỏ cây, vạn vật sống an vui, không có sự sát hại,
gây khổ đau dù là vô tình dẫm, đạp lên côn trùng. Có lòng từ thì không có tâm
chấp chặt, chỉ có sự bình đẳng, thương yêu nhau xuất phát từ trong đáy lòng của
ta.
Nếu ta không
trau dồi lòng từ thì nó chỉ là hình thức suông, là những danh từ hoa mỹ “từ bi,
bác ái”. Bấy lâu nay ta nghe thấy các danh từ ấy nhưng ta chưa thực hiện đúng mức
giữa người và người, cũng như giữa người và vật. Nói cho cùng, chúng ta lầm chấp
thân tâm này là ngã (của ta). Bao giờ ta còn lầm chấp như thế là ta không có
lòng từ bi thật sự.
Muốn được thật
sự có lòng từ bi thì hàng ngày ta phải trau dồi nó thì ta mới có được. Nhờ đó
mà bản ngã ta mới tiêu mòn và ta thấy trong vạn vật có mình, mà như không có
mình. Ta cần phải có câu pháp hướng để thực tập. Đây là điều rất quan trọng, nó
là ngọn đuốc soi đường ta đi. Khi nắm, bắt lấy một vật gì, ta phải hành động nhẹ
nhàng, từ tốn. Đây là oai nghi, tế hạnh của thầy tu. Mỗi hành động của tay,
chân đều hướng tâm, nhắc tâm ta thương yêu mọi loài. Từ đó tâm từ của ta mới thấm
nhuần sâu tận xương tủy, và biến mãn ra thân mình đầy lòng thương yêu chân thật.
Cần ghi nhớ ở đây không phải ta tu tập chánh niệm tỉnh giác định, mà là tu tập
hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, tu tập tỉnh thức để thể hiện lòng từ.
Người có
lòng từ không bao giờ biết sợ hãi trước ác thú, hiểm nguy. Loài vật chung quanh
ta cũng biết sợ hãi (cọp, beo, voi, gấu). Do sợ hãi mà nó nhìn ta chăm chăm (vì
mắt ta có vẻ hung dữ?). Con vật thấy người tu, mắt nhìn xuống thì nó an tâm, và
không sợ hãi. Người không tu, khi thấy con vật lớn thì lo cao chạy xa bay, khi
thấy con vật nhỏ thì đánh, bắt, giết. Bởi vậy họ có thể bị ác thú giết hại vì
trong người họ toát ra từ trường ác. Người có tâm từ thì không hãm hại thú dữ
mà còn thương yêu nó nữa. Tu sĩ sống trong rừng hài hòa với thú là do lòng từ
chứ không phải là do công phu thiền định. Những con vật nhỏ hơn như rắn, rết,
bò cạp có chất độc là để bảo vệ thân nó khi nó bị tấn công, mạng sống bị đe dọa.
Khi có lòng từ thì đi trên xe đò ta cũng không sợ (bị móc túi), vì đã ban rải
lòng từ cho họ. Người thường, nếu có cái gì quý giá thì họ nơm nớp lo sợ, còn
ông thầy tu thì có cái gì mà sợ mất trộm?
Để kết luận,
ta có thể nói rằng trau dồi lòng từ không phải là chuyện đơn giản. Đạt được
phân nửa là ta đã sống an vui, thanh thản. Nếu muốn đạt lòng từ trọn vẹn một
trăm phần trăm thì ta phải vứt bỏ hết tất cả tài sản, của cải thế gian. Khi ta
thật sự có tâm từ thì trong lòng không còn sợ hãi nữa.
2/ Trau
dồi tâm từ nơi miệng (khẩu hành):
a/ Từ
tâm trong vấn đề ăn uống: Khi ăn, uống, nhai, nuốt ta phải cẩn thận kẻo
nhai nuốt lầm chúng sanh. Thí dụ khi ta vội vã ăn một cái bánh có mấy con kiến
là ta nuốt chúng luôn. Ta phải từ từ, lấy que nhỏ đưa con vật (kiến, sâu) ra khỏi
thức ăn của ta (rau cải, trái cây, bánh, v.v....). Người tu sĩ cũng như cư sĩ đều
phải thực tập như thế, luôn luôn phải như lý tác ý: “Khi ăn, uống,
nhai, nuốt ta phải cẩn thận để không nhai nuốt chúng sanh. Làm cho chúng sanh
đau khổ, chết chóc trong khi ta ăn uống là một điều tội lỗi.”
b/ Từ
tâm khi nói chuyện: “Muốn nói một điều gì phải cân nhắc, suy tư
chín chắn rồi mới nói”. Đó là câu pháp hướng cần ghi nhớ để không nói
lời làm khổ mình, khổ người. Lời nói ác độc, nói đùa, mỉa mai cũng làm cho người
ta đau khổ. Hầu hết chúng ta không biết trao dồi lời nói, khi muốn nói là cứ
nói tùy thích, không hề nghĩ đến hậu quả của nó. Không nên đặt điều nói lời oan
ức cho người khác (chuyện có nói không, chuyện không nói có). Nếu mình không muốn
người ta nói lời oan ức cho mình thì mình đừng nói lời oan ức cho người. “Phải
gìn giữ lời nói đứng đắn, không làm khổ mình, khổ người” để trau dồi tứ
vô lượng tâm. “Ta là người hay nhiều chuyện, lắm mồm, vậy hàng ngày ta
phải trau dồi miệng”. Tùy theo nhược điểm của mình mà đặt thêm những câu
pháp hướng tương tự cho phù hợp với đặc tướng của mình. “Ach giữa đàng, mang
vào cổ, chuyện người người biết, chuyện mình mình hay; đừng có tài khôn mà chuốc
lấy họa vào thân”. Thật là vô ích khi mình đến can thiệp vào chuyện của
người để rồi tranh chấp, đôi co. Nếu thường xuyên hướng tâm thì ta rất tỉnh
táo, khi nói sẽ phải suy tư rồi mới nói và giảm tốc độ nói để có thì giờ suy
nghĩ trước khi nói. Nếu gặp chuyện xảy ra mà nói líu lo, lỡ nói rồi làm sao lấy
lại được? Nếu ta không khéo, nói phóng theo tư tưởng ngã chấp thì có ngày sẽ
chuốc họa vào thân. “Từ nay ta phải yên lặng, sống trầm lặng (độc cư),
không được lắm mồm trước mọi hòan cảnh, mọi đối tượng”.
Do miệng lưỡi
nói ra mà kẻ sân, người khổ, kẻ quyên sinh. Do miệng lưỡi mà gia đình ly tán,
bè bạn tránh xa. Do miệng lưỡi nói ra mà vạn vật, sinh linh phải chết (đến nhà
người bạn chơi, khen con gà tốt quá, nếu làm thịt ăn thì ngon tuyệt). Do miệng
lưỡi nói ra mà có người bị tù đày, biệt xứ. Miệng lưỡi nói ra mà gia đình người
ta xào xáo, anh em chia lìa, thiền môn mất trang nghiêm, tăng đoàn không còn
thanh tịnh[3],
v.v…
Nói chung, sự
đau khổ của con người ta ở thế gian này phần đông là do miệng lưỡi. Vậy hàng
ngày chúng ta phải trau dồi miệng lưỡi để nói lời lành, lời thiện. Phải thường
xuyên như lý tác ý câu này: “Ta không nói thì thôi, mà nói ra thì phải làm
vui lòng người”. “Nói ra mà làm vui lòng người là ta thương người”. “Làm người,
ta phải thương người, thấy sự đau khổ của người như chính sự đau khổ của ta”.
3/ Trau
dồi tâm từ nơi ý hành:
Muốn trau dồi
ý, ta phải tư duy: “Thân tất cả chúng sanh cũng như thân ta thường đau
khổ đói khát. Ta hãy thương yêu và chăm sóc chúng như chăm sóc con ta vậy”. Sự
tư duy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần khi nhìn hoạt động các loài vật (một đàn
kiến đi qua), nó có buồn, vui, đau khổ (nó ra sức bảo vệ khi bị con vật khác tấn
công). Từ đó ta tư duy đến đời sống của các sinh vật. Khi có con vật bị tai nạn
ta phải ra tay cứu nó (con kiến té xuống nước mà ta vớt lên là hành động của bi
tâm). Khi nghe con nhái bị con rắn cắn thì ta phải mau mau chạy ra can thiệp để
cứu nó. Khi một bầy chó hùa nhau tấn công một con chó khác trong xóm thì ta phải
can ngăn. Một con chim nhỏ bị con chim lớn mổ, cắn thì ta phải ra tay cứu giúp
nó. Khi để ý, quan sát đời sống của loài vật thì ta mới thương yêu, cảm thông
chúng. Lúc ngồi nghỉ ngơi mà có thể giúp đỡ được cho chúng thì lòng ta thấy vui
mừng, tâm ta tỉnh táo và ta cũng tu tập thiền định nhanh hơn là ngồi yên một chỗ
luyện tập hơi thở.
Sự quan sát
còn làm cho tri kiến ta ngày càng rộng lớn hơn. Từ đó ta tư duy mới thấy hạnh
phúc ở trần gian chỉ là giả tạo. Ngồi thiền nhập định để làm chủ sanh tử mà
không trau dồi tâm ý là một điều thiếu sót lớn. Thế nên, mỗi ngày chúng ta cần
phải bỏ ra vài ba phút, hoặc hai ba chục phút để quan sát mọi loài, lắng nghe
tiếng kêu khổ, cầu cứu của chúng sanh. Hành động như vậy sẽ giúp cho sự tu tập
của ta rất nhiều. Từ trước đến nay chúng ta tu tập mà không có người hướng dẫn
cặn kẽ, nghe nói Tứ Vô Lượng Tâm mà không biết phải tu như thế nào, trau dồi ra
sao, lấy cái sau tu trước, lấy cái trước đem tu phía sau. Trau dồi lòng từ là
“tu” cái tham, sân, si chứ không phải diệt tham, sân, si rồi mới tu tập lòng từ.
Cứ mải lo nén tâm, tập hơi thở, ngồi thiền làm cho dứt sanh tử luân hồi, trong
khi tham, sân, si chưa dứt thì làm sao có lòng từ? Đức Phật dạy các tu sĩ và cư
sĩ tu tập để sống một đời an vui, xã hội có trật tự an ổn.
Nếu ta tu một
hai năm và trau dồi tứ vô lượng tâm qua thân, khẩu, ý thì chắc chắn ta sẽ có hạnh
phúc rất lớn, hạnh phúc chân thật cho ta và gia đình ta. Hãy tự hỏi bấy lâu nay
ta tu tập, 5 năm, 10 năm, 20 năm mà gia đình ta có an vui, giải thoát không,
hay là như ngục tù, đau khổ? Nơi nào đạo Phật đến thì phải có giải thoát thật sự.
Nếu không thấy giải thoát thật sự thì đó không phải là đạo Phật chân chánh.
Có bao giờ
quý vị nhìn cỏ cây, ngắm hạt sương đọng trên cỏ vào buổi sáng tinh mơ? Có bao
giờ quý vị để ý đến ngọn cỏ non mấy bữa trước, hôm nay đã bung ra thành lá cỏ
không? Hãy theo dõi cuộc sống đang diễn biến trước mắt chúng ta, rồi ta mới thấy
thương yêu cỏ cây, loài vật. Cỏ cây và loài vật mà ta thương được thì làm sao
mà ta không thương được con người? Dù cho người có oán ghét ta, ta cũng không để
dạ, mà phải sống buông xả và thanh thản. Do đó đời ta không có người thù mà chỉ
có người đã hiểu và người chưa hiểu ta mà thôi. Khi ta trau dồi được ý thì thân
và khẩu sẽ không còn khó khăn nhiều.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét